học pháp thuật mao sơn

La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp 1. Mục đích chân chính của việc học: 3. Nguyễn Thiếp bàn về phép học: - Phương pháp: + Học từ thấp đến cao. + Học rộng, nghĩ sâu. Tóm lược điều cơ bản, cốt yếu nhất.. + Học đi đôi với hành. I- TÌM HIỂU CHUNG: II- ĐỌC - HIỂU VB Trường Tiểu học Lê Mao là Trường tiểu học tại Nghệ An có địa chỉ tại 99 Đinh Công Tráng, Lê Mao, Thành phố Vinh, Nghệ An. đại diện pháp luật,… 2901037922 - Trường Tiểu Học Lê Mao - Masocongty.VN Huyện Anh Sơn: 70.04 km: 168 phút: 140 phút: Huyện Con Cuông: Phê phán quan niệm học lệch lạc, sai trái. BỐ CỤC P3: "Cúi xin từ nay chớ bỏ qua." Bàn luận về phương pháp học. . P4: còn lại. Tác dụng của việc học chân chính.-La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp- 1/ Đọc - Tìm hiểu chi tiết: "Ngọc không mài không thành đồ a. Phê bình văn học mácxít. Karl Marx từng ghi danh học đại học theo khoa triết. Luận án tiến sĩ do Marx trình ở Viện Ðại học Jena năm 1841 so sánh sự khác biệt giữa triết học tự nhiên của Épicure và của Démocrite. Marx quan niệm rằng nhiệm vụ của triết gia không phải chỉ "Chứng dẫn một thời đại" của Nguyễn Vỹ. NXB Văn học, 2007. 1. Vu (vous) anh theo tiếng Pháp. 2. Lúc bấy giờ ở Hà Nội có một cô sinh viên đỗ bằng Tiến sĩ Vật lí học ở Pháp mới về. Ông Nguyễn Văn Vĩnh đoán chừng "Lệ Chi" là cô Tiến sĩ ấy. 3. Chương trình học nặng về tiếng Pháp, chỉ còn một số ít học chữ Hán. Nguyễn Tất Thành được phụ thân cho đi học ở Vinh Tại trường tiểu học Vinh, Nguyễn Tất Thành chú ý đến ba từ được sơn vào gỗ, gắn ở phía trên bảng đen "LIBERTé, éGALITé, FRATERNITé" (Tự do acebunav1979. Cách luyện bùa chú Mao Sơn linh nghiệm Dùng bùa chú Mao Sơn muốn đạt được linh nghiệm thì cần phải lấy thái độ thành tín làm đầu. Trong kinh có câu rằng “thần không chỗ nào không ở, không chỗ nào không nhìn thấy, phép không chỗ nào không linh nghiệm, tâm thành kính thì có thể đạt được”, tức là chỉ điều đó vậy. Người cầu thuật nếu như có thái độ cầu thuật bán tín bán nghi, đối với việc thi hành cảm ứng cầu thuật sẽ có những ảnh hưởng không tốt, vì thế cho nên người triển khai cầu thuật trước tiên phải lập cái tâm thành kính, không có thể coi thường. Vậy thì lập cái tâm thành kính của người cầu thuật như thế nào vậy ? 1. Sự tu dưỡng của bản thân thuật sĩ Việc tu dưỡng của người thuật sĩ bao gồm thân nhục thể, tâm tinh thần, cho đến tu dưỡng đức tính. Có một số người sinh ra đã có phong thái Tiên phong đạo cốt, dáng vẻ và tinh thần của họ có linh lực cảm ứng, khiến cho người cầu thuật một lần nhìn thấy đã có thể bị chấn động. Nhưng cũng có một số người linh dị khác thường được trời ban cho thiên phú, đó là cái may mắn của một thuật sĩ xuất sắc, cũng có thể là do khiêm tốn tu dưỡng mà đạt được, tức là phải đồng thời tiến hành tu dưỡng thân và tâm cùng một lúc, chốc chốc lại ngồi tĩnh tu thở ra, hít vào, khiến cho thần thể khí phách tráng kiện, thanh âm vang trong, khí lực tràn trề. Thử nghĩ nếu như một người tinh thần mệt mỏi, hơi thở yếu đuối, đối với sự việc mà không có năng lực quyết đoán, gan nhỏ như chuột, sợ đầu sợ đuôi, như thế sao có thể thiết lập uy tín với người khác. Như thế sao có thể vẽ ra một tấm bùa linh nghiệm. Thuật sĩ ngoài việc tu dưỡng thân tâm, thì đối với việc xây dựng đức tính cũng cực kỳ quan trọng. Thuật sĩ hàng ngày cần phải lưu ý phong thái của mình, tránh xa tửu sắc, tiền tài, cần tạo dựng phong thái tự nhiên, lấy lễ đãi người, ôn hòa mà lại ẩn chứa sự nghiêm túc. Trang phục hàng ngày cũng cần lưu ý, trong một thời gian phải tuân thủ chặt trẽ, tức phải siêu nhiên thoát tục. Muốn khiến cho người cầu thuật kính sợ, ngoài việc có một bí quyết, thì khi làm phép cũng cần phải tiến hành thuật thôi miên khiến cho người cầu thuật trong lúc vô ý chịu sự khống chế của tiềm thức, mà xây dựng nên lòng thành tín. 2. Cách bố trí đạo đàn Đàn làm phép không nhất thiết phải ở nơi rộng rãi, nếu như ở nơi hạn hẹp thì giản tiện, không ắt phải đầy đủ rộng rãi, cốt ở tấm lòng của người cầu thuật. Cho nên phàm là lập đàn tế thế cần phải bố trí một đạo đàn mang phong thái thời cổ, ở trong phòng ấy làm phép đương nhiên là công lực sẽ tăng thêm bội phần. Do bùa chú đạo thuật là thuật pháp thần bí đã có lịch sử hàng nghìn năm, cho nên đạo đàn tuyệt đối không nên bố trí theo cách mới, dùng cổ là tốt nhất, pháp khí đạo cụ càng cổ càng tốt, cũng không nên đem đồ pháp khí cổ đánh rửa sạch sẽ sáng loáng. 3. Bồi dưỡng linh lực Thế nào gọi là linh lực ? Linh lực tức là sức mạnh siêu tự nhiên. Một người thuật sĩ nếu như có thể tu tập đến mức tập hợp linh khí của trời đất và linh khí của bản thân hòa vào làm một thì đã đạt đến mức siêu nhiên của một vị tiên vậy. Việc tu luyện cũng tùy theo nhân duyên, có duyên thì sẽ sớm ngộ, nếu không thì 10 năm tu tập cũng chưa có thể thành tựu. Vậy như thế nào gọi là bồi dưỡng linh lực ? Căn cứ theo Bí truyền Lục giáp đàn linh tu chân quyết các bí quyết chân truyền tu đàn Lục giáp thì lập đàn Lục giáp ắt phải trai giới tu luyện 49 ngày, mà trước chưa từng thấy linh quang, hoặc thần tướng thì nên tu thêm Bí truyền pháp thân tu chân chuyên khoa chuyên khoa bí truyền tupháp thân để chân linh có thể hiển lộ. 4. Bí quyết vẽ linh bùa Một trước khi vẽ bùa cần ngủ đẫy giấc, tinh thần sảng khoái, đầu tiên tắm rửa toàn thân, bình tâm hòa khí, sau mới bắt đầu đốt hương niệm chú vẽ bùa. Phàm là nóng giận, tinh thần mệt mỏi, bệnh tật hoặc sau khi quan hệ nam nữ thì đều không thể vẽ bùa, hãy cẩn thận đấy. Hai thời gian vẽ bùa, tốt nhất là vào giờ Tí, thời gian này là lúc âm dương giao hòa, vạn vật cảm ứng, vô cùng linh nghiệm. Ngoài giờ Tí, thì vào ngày tốt các giờ Mão, Ngọ, Dậu, Hợi cũng có thể vẽ bùa. Vào ngày hình phá không thể vẽ bùa, dùng không linh nghiệm. Ba thời cổ đại vẽ bùa dùng mực Tĩnh yên tùng, thời Hán phương sĩ luyện đan thích dùng Chu sa vẽ bùa. Nay phàm là các sách giải thích chu sa, dùng Chu sa vẽ, sách giải thích mực, dùng mực Tĩnh yên vẽ, nếu như không giải thích thì Chu sa và mực đều có thể dùng được, đeo bùa dùng mực là tốt nhất, Chu sa dùng Lạp trạng chính thần sa là hợp. Bốn giấy để vẽ bùa dùng giấy vàng Công sơn hoặc giấy xanh Công sơn, các loại giấy khác không có thể dùng hóa để nhuốt, hãy cẩn thận, chớ có dùng sai. Nếu như đeo bùa vải thì dùng vải vàng thuần chất lụa là hợp. Năm phàm khi lập đàn lục giáp, đã tu luyện 49 ngày, vẽ bùa, làm phép đại khái cần dùng các vật bút, giấy, mực, nghiên, Chu sa, đặt ở dưới đàn Lục giáp. Trước khi vẽ bùa cần phải đốt hương châm đèn, tay lắc chuông niệm lục khẩu quyết Quyết thứ 1 chú thần Thổ địa Thử gian thổ địa, thần chi tối linh, thông thiên đạt địa, xuyên u nhập minh, vi ngã quan thiệu, bất đắc lưu đình, hữu công chi nhật danh thư thượng thanh. Quyết thứ 2 chú Nhị thập bát tú Giác Cang Đê Phòng Tâm Vĩ Cơ, Đẩu Ngưu Nữ Hư Nguy Thất Bích, Khuê Lâu Vị Mão Tất Chủy Sâm, Tỉnh Quỹ Liễu Tinh Trương Dực Chẩn. Quyết thứ 3 chú Thất tinh bắc đẩu Đẩu, Thực, Quyền, Hành, Tất, Phụ, Phiêu. Quyết thứ 4 chú Thập thiên can Giáp Ất Bính Đinh, Mậu Kỉ Canh Tân, Nhâm Qúy. Quyết thứ 5 chú Ngũ hành Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ. Quyết thứ 6 chú Thập nhị cung thần Tí Sửu Dần Mão, Thìn Tị Ngọ Mũi, Thân Dậu Tuất Hợi. Nếu như tế đàn Lục giáp, thì trước khi vẽ bùa cần đem, mực, bút, nghiên, nước sắc chú để dùng, các sắc chú như sau Sắc chú cho giấy Bắc đế sắc ngô chỉ, thư phù đả tà quỷ, cảm hữu bất phục giả, áp phó phong đô thành, cấp cấp như luật lệnh Sắc chú cho mực Ngọc đế hữu sắc, thần mặc chá chá, hình như vân vụ, thượng liệt cửu tinh, thần mặc khinh ma, phích lịch củ phân, cấp cấp như luật lệnh Sắc chú cho bút cư thu ngũ lôi thần tướng, điện chước quang hoa, nạp tắc nhất thân bảo mệnh, thượng tắc phược quỷ phục tà, nhất thiết tử hoạt diệt, đạo ngã trường sinh, cấp cấp như luật lệnh Sắc chú cho nghiên Ngọc đế hữu sắc, thần nghiên tứ phương, kim mộc thủy hỏa thổ, lôi phong vũ điện, thần nghiên khinh ma, phích lịch điện quang mang, cấp cấp như luật lệnh Sắc chú cho nước thử thủy phi phàm thủy, bách phương nhâm quý thủy, nhất điểm tại nghiên trung, vân vũ tu du chí, bệnh giả thôn chi, bách quỷ tiêu trừ, tà quỷ thôn chi phấn toái, cấp cấp như tam kì đế quân như luật lệnh. Sắc chú xong mài mực dùng. Thuật sĩ đứng trước đàn Lục giáp cần tiến sớ văn cầu đảo, sớ văn như sau Vào giờ…ngày…tháng…năm, phụng đạo Mao Sơn kinh lục đệ tử…đạo sư, cẩn thành cầu xin các vị Hiên Viên lão tổ, Thái thượng lão quân, Mao Sơn tổ sư, Thuần Dương tiên sư, Trương Phủ thiên quân, Ngũ hiển đại đế, Pháp chủ thánh quân, Dao trì kim mẫu, Tam Sơn cửu hầu đến trước đàn Lục giáp sắc bùa…, ban cho thiện nam/tín nữ…cùng mệnh vào giờ…ngày…tháng…năm cùng ở bên thân, giáng bút có thần, đệ tử thành kính cầu xin, cúi đầu cẩn cáo. Khi đọc sớ này không được lắc chuông, thuật sĩ có thể hai tay hợp lại đặt ở trước ngực, khi hô tên thần nào thì hai mắt nhìn bài vị của vị thần ấy, niệm xong chấp tay khấu đầu thì có thể ngồi trước đàn vẽ bùa. Sáu khi hạ bút vẽ bùa, nếu như trên bùa có VVV thì trước tiên Vẽ một V ở bên trái, khi vẽ niệm nhất bút thiên hạ động, Tiếp đó vẽ ở giữa một V, khi vẽ niệm nhị bút tổ sư tiễn, Cuối cùng vẽ bên phải một V, khi vẽ niệm tam bút hung thần ác sát tẩu khứ thiên lý ngoại. Nếu như bùa mà không có VVV thì khi hạ bút vẽ trước tiên cần niệm Thiên viên địa phương, luật lệnh cửu chương, ngô kim hạ bút, vạn quỷ phục tàng, cấp cấp như luật lệnh. Đầu và đuôi bùa có ..... Niệm tam điểm phù linh ứng, chữ ở phù đảm thì trùng lên nhau viết lên phù giá, phàm là bùa không có phù giá, không thể tự ý thêm phù giá, phủ đảm để tránh thần linh nổi giận. Bảy sau khi vẽ bùa xong, cái gọi là vẽ bùa xong là chỉ những thành phần quan trọng của toàn bộ bùa đã xong, một khi vẽ xong thì có thể kết hợp với sắc bùa kiếm quyết chỉ hoặc kim cương chỉ, khi sắc trước tiên kiếm quyết chỉ hoặc kim cương chỉ để trước mồm thở ra một hơi, dùng xong lại để trước miệng hít một hơi, sắc bùa Mao Sơn thường dùng chú ngữ như sau Một phụng Mao Sơn tổ sư, tứ ngã kiếm quyết / kim cương thiết bút chỉ, chỉ thiên thiên thanh, chỉ địa địa linh, điểm thần thần hiển thánh, điểm nhân nhân trường sinh, điểm phù phù linh ứng. Khi niệm “điểm thiên thiên thanh” thì chỉ kiếm chỉ / kim cương chỉ hướng lên trên, niệm “điểm địa địa linh” thì chỉ xuống dưới, “điểm thần thần hiển thánh” thì chỉ lên hướng thần vị, niệm “điểm nhân nhân trường sinh” thì chỉ người hoặc chỉ bụng, mồm của bản thân mình. Tiếp theo niệm hai Càn nguyên âm phú, huyền vận vô biên, tạo hóa phát dục, vạn vật tư yên, đông tây nam bắc, nhiệm ý an nhiên, vân hành vũ thí, biến hóa bất trắc. Ngô phụng Thái thượng lão quân sắc cấp cấp như luật lệnh. Khi niệm chú này kiếm quyết/kim cương chỉ chỉ vào bùa, dùng lực tiếp xúc đến bùa giấy với cả vật có đủ linh lực. Kiếm quyết chỉ hoặc kim cương chỉ không có thể chỉ loạn, tay chưa rửa sạch không có thể chỉ để tránh khỏi việc thần giận trời quở trách. Sau khi sắc bùa thì phải đóng thêm thất tinh linh ấn, hóa nhuốt, đóng một ấn hóa, thiếp, bội, thiếp, đều đóng ba ấn thượng, trung, hạ, đóng xong hóa một số kim ngân ở dưới đàn vào lò, tay cầm bùa ở trên lửa đưa qua đưa lại ba lần, lại đem ba nén hương ở trên đàn đưa qua đưa lại 3 lần thì đã hoàn thành. ********************Kinh nghiệm vẽ bùa******************* Khi ngồi trước thần đàn vẽ bùa, phàm là người có đạo hạnh cao thì trên thân sẽ phát ra linh quang, đặc biệt là trên trán, bùa đó thì linh lực vô cùng hiệu nghiệm. Nhưng tu được đến mức như vậy thì nên ẩn dấu tránh lộ diện, chớ đến chỗ nào cũng rêu rao, tiết lộ thiên cơ, thì e rằng công lực sớm muộn cũng sẽ tận kiệt, hối cũng chẳng kịp. Khi vẽ phù lục của loại bùa khu tà phục quỷ tinh thần nên tập trung ở chỗ ác ma quyết đấu, trảm sát thanh trừ. Vẽ phù lục của các loại bùa tình yêu hòa hợp thì tinh thần ở chỗ tạo cho người cầu thuật sự vui vẻ. Vẽ bùa tài vận thì tập trung ở trên vàng bạc, tiền tài. Vẽ trì tà giải oan thì tinh thần tập trung ở vào trừ tà, giải oan, sức khỏe cho người cầu thuật Giảm giá! ₫245,000 Mao Sơn Đại Pháp Linh Phù Tác giả Tam Mao Chân Quân 三茅真君 Dịch Từ Liêm 142 Trang Mô tả Thông tin bổ sung Mô tả Mao Sơn Đại Pháp Linh Phù – Tam Mao Chân Quân Mao Sơn được mọi người biết đến với uy danh đệ nhất khưu ta, pháp thần thông quản đại cao siêu và còn lập đàn, bố trận pháp. Mao Sơn phái có các đời tông sư rất nổi tiếng, qua nhiều thời, sáng tạo ra những pháp thuật xuất chúng, có ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa đạo giáo Trung Hoa. Là một môn phái lớn trong tám đại huyền thuật của Trung Quốc với những pháp như Hành thông linh pháp đi xuyên thấu tam giới, Luyện cương thi luyện xác chết thành thi biến nhằm mục đích đưa về quê an táng…Ngoài những pháp thuật kể trên Mao Sơn còn có những trận pháp vô cùng huyền diệu như Cửu đăng liên hoa trận, cửu tiền bôi đỉnh trận, bát quái trận,… Mao Sơn Phái vốn là một Đạo Giáo thiên về việc lập đàn và bố trận là chính vì nó có sự ảnh hưởng của binh pháp. Mao Sơn không sử dụng các pháp ấn mà đa số sử dụng Linh Phù là chính.. Mao Sơn Đại Pháp Linh Phù – Tam Mao Chân Quân Thông tin bổ sung Trọng lượng kg Kích thước 21 × 15 × 2 cm isbn_issn 8935278602392 Bạn đang xem Mao Sơn Đại Pháp Linh Phù – Tam Mao Chân Quân ₫245,000 Thêm vào giỏ hàng V/ Phương pháp tu luyện 1. Trai kì Vào các ngày 15 tháng 2, 15 tháng 3, 3 tháng 10 , đông chí tháng 11 âm lịch hàng năm. Ngày 15, mùng một âm lịch hàng tháng. Lưu ý Trong trai kì không được ăn thịt, ngũ tân và uống rượu. Ngũ tân bao gồm hành, tỏi, hẹ, ớt, gừng. 2. Bố tràng Công pháp bố tràng sắp xếp vô cùng đơn giản và thực dụng. Cần một cái bát, đổ gạo kê khoảng một phần ba bát. Một lá bùa thông linh, ba nén nhang, bốn miếng vàng mã, một cái đệm. Trong lúc tu luyện thì ngồi sao cho mặt hướng về phía Đông. 3. Thông linh Vào giờ Dần 3-5 giờ, rửa mặt, thay quần áo sạch, tìm một chỗ thanh tịnh không người, mặt hướng về phía Đông, dựng đàn tế, đốt ba cây nhang cắm vào bát gạo, sau đó quỳ gối trên đệm, đốt ba miếng vàng mã, dập đầu ba cái, dùng ngón giữa ở bàn tay phải làm thành chữ “Thập” trên mặt đấy, sau đó gác cẳng chân lên chữ “Thập”, đùi phải gác trên chân trái, tức là ngồi kiểu đan bàn thế thiền Kiết Già * , ngồi trên chiếu, đốt một miếng bùa, sau đó khép hờ hai mắt lại, tư thế nghiêm chỉnh, đầu nâng lên, hít vào thở ra chín lần, sau đó hai tay chụm thành hình tròn đặt ở hạ đan, chuyên chú tụng văn Khải Độ “Khán khán Khải Độ văn bái thỉnh tam thanh tam cảnh tam vị thiên tôn, Thái Thương lão quân, Trương Triệu Nhị Lang, Nhạc Vương tổ sư, Lí Công chân nhân, Đông Sơn lão nhân, Nam Sơn tiểu muội, Nam Hải quan âm, Phục Hi thần nông, Hiên Viên hoàng đế, Lôi Thần đại đế, Bàn Cổ thánh vương, Địa Mẫu nguyên quân, Ngọc Hoàng đại đế, Hoàng Sơn Thất Lang, La Sơn Cửu Lang, Tam Thiên Khai Hoàng, Ngũ Nhạc Đại Địa, Thần Tiêu Vương Phủ, Long Hổ Huyền Đàn Triệu Nguyên Suất, Tam Mao chân quân, Ngũ Tinh Nhị Thập Bát Túc, Chư Thần Tiên thủ trì phù chú pháp thuật, dữ tên người hành pháp nguyện cứu chúng sinh khổ nan, chữa bệnh hồi sinh, hàng ma trừ tà, tị khước gian ác, nguyện khôi cương hộ thể uy linh hiển trứ, thiên khiếu thiên ứng, vạn khiếu vạn linh, bất khiếu tự linh.” * Hình ảnh kiểu ngồi này mình sẽ để dưới cmt. Cám ơn bạn Tạ Nguyễn Huyền Sang đã cho tớ biết tên thế thiền đó nha. 4. Phương pháp tu luyện Đầu tiên phải đốt ba nén nhang, dập đầu ba cái, tụng thầm văn Khải Độ. Sau đó tu luyện theo phương pháp, yêu cầu cụ thể của mỗi loại pháp thuật. Mỗi loại chú ngữ niệm 3~36 lần. 5. Những thời điểm kỵ vẽ bùa, dùng phù chú Một Vẽ bùa i. Ngày tốt Tết Đoan Ngọ là ngày tốt để vẽ bùa, tạo phù chú. ii. Ngày giỗ Mỗi năm đều có bốn ngày không được tùy tiện vẽ bùa. Là ngày 9 tháng 3 âm lịch, ngày 2 tháng 6, ngày 6 tháng 9, ngày 2 tháng 12. Nếu vẽ bùa trong bốn ngày này, chẳng những bùa không linh nghiệm mà ngược lại còn chuốc họa vào thân. iii. Canh giờ Tốt nhất nên chọn giờ Tý hoặc giờ Hợi. Vì vào những giờ này âm thịnh dương suy, là lúc âm dương giao hòa, linh khí nồng nhất. Dưới một chút là giờ Mẹo, giờ Dậu buổi trưa cũng được Hai Dùng phù Có những loại phù phải phối hợp với tinh mệnh bản thân để sử dụng, nếu vi phạm sẽ gặp tai ương. Nhớ kĩ! Tuyệt đối phải nhớ kĩ! Ví dụ như Người thuộc năm Phùng Thái Tế Tinh Quân mặc kệ là nam hay nữ, chỉ cần là 1, 13, 25, 37, 49, 51, 73, 85 tuổi, đều là năm Phùng Thái Tế Tinh Quân phải cúng bái Thái Tuế Tinh Quân, nhất định sẽ được bình an vô sự. Chọn ngày lành tháng tốt, giờ hên tháng giêng thì trong nhà yên bình. Nếu chọn sai năm dùng phù, năm Không Trung Tinh gặp Không Trung phù Hôm đó Thái Dương Tinh Quân đến trấn sẽ phản phệ khiến hung tinh nhập cung.’ VI/ Thuật pháp Thuật pháp Mao Sơn có hơn trăm loại, trong đó + Thuật pháp công kích Ngũ lôi chú, thiên lôi phá, huyền băng chú, hỏa vân chú, tử u chú, thanh minh chú, thương linh chú, phần thiên chú, diệt thần chú, đại thủy chú, cự mộc chú, tam muội chân hỏa trung cấp, lưu tinh hỏa vũ cao cấp, luyện ngục chân hỏa cao cấp, lôi động cửu thiên cao cấp, phong tuyết băng thiên cao cấp, huyền băng độc vũ cao cấp, thái sơn áp đỉnh cao cấp. + Thuật pháp phụ trợ Tĩnh tâm chú, thánh linh chú, kim cương chú, hàng ma chú, trấn yêu chú, ngự phong chú, phi tường chú, phá tà chú, khẩn cô chú, câu hồn chú, định thân chú, hộ tâm chú, bát quái chú, tập thần chú, thu hồn chú, cữu phượng chú, tam thai chú, an thần chú, thiên cương chú, dũng tuyền chú, trừu hậu chú, hộ thân chú, phược thần chú, kình thiên chú, thiên cương chiến khí trung cấp. + Chú ngữ giúp siêu độ vong linh Thanh âm chú, độ hồn chú. + Câu hồn Vong hồn chú, di hồn chú đẳng. + Làm pháp sự Phần hương chú, phần phù chú, vệ linh chú, tịnh đàn chú đẳng. + Độ hồn Thăng thiên chú đẳng. + Diệt trừ ôn dịch Khu ôn chú, khư tà chú, phá uế chú đẳng. + Cầu phúc Kì phúc chú, bình an chú, an thái chú đẳng. + Thu hồi Tam hoa tụ đỉnh, ngũ khí triêu nguyên đẳng. + Vẽ phù Thanh thủy chú, thanh chỉ chú, thanh bút chú đẳng. + Thu phục cổ trùng Diệt cổ chú, thiên tàm phệ cổ. + Những cái khác Khai sơn chú, thiên hoạn chú, phát tấu chú, truyền đệ chú, bái biểu chú, bái đấu chú, tống triệu chú, trấn trạch chú, giải ách chú, hòa hợp chú, tịnh y chú, phá ngục chú, phạm khí đăng chú, cầu tài chú, ác ý hỏa chú, báo ứng chú, thôi sinh bảo sản chú, khải sư chú, triệu công tào chú, thiên tương chú, tổng như chú, vương linh quan chú, mã nguyên suất chú, triệu nguyên suất chú, chu nguyên suất chú, khang nguyên suất chú, ôn nguyên suất chú, ân nguyên suất chú, cao nguyên suất chú, “Ngũ lôi chưởng pháp” và “Giải ngũ lôi chưởng pháp”, “Đỗ thống pháp” và “Giải đỗ thống pháp”, “La hán tiên pháp”, “Giải tà thuật pháp”, “Chỉ huyết tiên pháp”, “Điệt đả mai sơn pháp”, “Khẩn cô chú”, “Cách sơn chỉ huyết pháp”, “Câu hồn pháp”, “Thu thần phách pháp”, “Hoa đà tiên sư pháp”, “Quân âm tiên pháp”, “Hắc trát pháp”, “Chỉ thống tiêu thũng pháp”, “Thiên cân định”, “Yết hầu cốt ngạnh pháp”, “Chỉ thống hoa đà tiên pháp”, vân vân… Uy lực của thuật pháp phụ thuộc vào căn cơ người hành pháp, loại pháp thuật, loại phù chú, hoành cảnh thi hành. Vậy nên cho dù chỉ là pháp thuật cấp thấp nhưng người thi pháp là một vị đại sư cao tay ấn thì hiệu quả thu lại vẫn vô cùng kinh thiên động địa. - Cre Nhà Số 48 - 四十八号 Viết xuống "Chi Tiết Thuật Pháp Mao Sơn - Phần 2" không dễ, mọi người tán dương chính là động lực để tiểu biên tiếp tục kiên trì viết tiếp! Hẹn gặp lại a... Nguồn TIÊN HIỀN THƯ VIỆN Mao Sơn Thuật Pháp Mao Sơn Thuật là một đạo thuật thần bí trong truyền thuyết Trung Quốc, dùng phù chú đuổi quỷ, hàng ma, khiến người người kính sợ. Thuở đầu, Mao Sơn Thuật được gọi là “Ngọc Nữ Hỉ Thần Thuật”, phát triển đến nay đã dần được hoàn thiện, có giáo lí của riêng mình. Mao Sơn Thuật hiện nay đã dung hợp rất nhiều thứ lại, không còn lấy đạo phái đạo thuật làm chính như lúc đầu. Mao Sơn Thuật chủ yếu sử dụng hắc, bạch vu thuật được truyền lưu trong dân gian của Trung Nguyên và khu Miêu. Người tu tập thuật pháp này, đa phần sử dụng phù, chú, nhờ thần linh, yêu ma quỷ quái trợ giúp. Thuật pháp này mang đậm chất thần thoại và chủ nghĩa duy tâm, lực lượng siêu nhiên và những thực thể huyền bí đến nay vẫn còn chờ khoa học giải thích. • Tên gọi Mao Sơn Thuật • Tên khác Mao Sơn Thuật Pháp • Khả năng Đuổi quỷ, hàng ma • Tục xưng Cửu Thiên Huyền Thuật, Ngọc Nữ Hỉ Thần Thuật • Xuất xứ Thị xã Cú Dung, thị trấn Trấn Giang, tỉnh Giang Tô • Quốc gia Trung Quốc • Tôn giáo Đạo giáo I/ Nguồn gốc lịch sử Mao Sơn nổi tiếng là thánh địa đạo giáo, trở thành cái nôi của đạo giáo Thượng Thanh Phái *, được người ta ví như “Đệ nhất phúc địa, đệ bát động thiên.” **, được khen là “Tần Hán thần tiên phủ, Lương Đường tể tướng gia.” * Giải thích khá dài nên mình sẽ up một bài riêng giải thích sau. ** Là nơi đất lành bậc nhất, xếp thứ tám trong những chốn bồng lai. Mao Sơn từng là trung tâm căn cứ chống Nhật ở Tô Nam * của Tân Tứ Quân **, được chủ tịch Mao liệt vào một trong sáu căn cứ chống Nhật lớn nhất cả nước. * Cách gọi tắt vùng Nam Bộ của Giang Tô. ** Tân Tứ Quân lực lượng vũ trang cách mạng do Đảng Cộng Sản Trung Quốc lãnh đạo trong thời kì kháng chiến chống Nhật. Mao Sơn là một ngọn núi đạo giáo nổi tiếng của tỉnh Giang Tô, Trung Quốc, là cái nôi của đạo giáo Thượng Thanh Phái, được đạo gia gọi với cái tên “Thượng Thanh Tông Đàn.” Có vẻ đẹp “Đệ nhất phúc địa, đệ bát động thiên”! Là một trong sáu căn cứ lớn chống Nhật. Thuộc thị trấn Trấn Giang, tỉnh Giang Tô. Trên núi có chín đỉnh, mười chín con suối, hai mươi sáu hang động, hai mươi tám ao hồ, núi non trùng điệp, mây mù bao phủ, khí hậu dễ chịu, những tảng đá kì quái xuất hiện dày đặc, nằm san sát nhau, hang động lớn nhỏ vừa sâu vừa u ám, quanh co, linh tuyền thánh trì nhiều như sao trên trời, quanh co đan chéo vào nhau, cây xanh trải rộng khắp núi, trúc xanh mọc sum xuê, là một kì cảnh trong chốn nhân gian. Đây cũng là một trong sáu căn cứ địa kháng chiến lớn của Trung Quốc. Ngọn núi cao nhất tên là đỉnh Đại Mao có một màu xanh biếc như chòm sao Thanh Long, cao 372,5 mét, cũng là đỉnh núi cao nhất của Mao Sơn so với mực nước biển. Năm 1986, Mao Sơn được chính phủ tỉnh liệt vào công viên sâm lâm cấp tỉnh, được phê chuẩn là danh lam thắng cảnh bậc nhất ở tỉnh. Đồng thời, nơi đây là thánh địa đạo giáo, căn cứ kháng chiến, gộp cả cảnh quan thiên nhiên, nhân văn, rừng rậm và cách mạng lịch sự, đẹp hơn rất nhiều so với tiên cảnh. Diện tích tổng thể là 32 kí lô mét vuông, nơi Cửu Tiêu Vạn Phúc Cung * ngự trị, đỉnh Nhị Mao, Tam Mao uốn lượn đi xuống, phập phồng cao thấp với đỉnh Đại Mao, vô cùng nổi bật. * Cửu Tiêu Vạn Phúc Cung gọi tắt là Cửu Tiêu Cung, tục xưng Đĩnh Cung, là miếu đạo giáo nổi tiếng. Trong lòng người thường, khi nhắc đến “Mao Sơn Thuật” sẽ có cảm giác thần bí, tôn trọng rồi lại vô cùng kính sợ, vì bị ấn tượng về các vai diễn do phim ảnh xây dựng, “đạo sĩ Mao Sơn” mỗi người đều là bậc thầy đuổi quỷ, hạ phù chú, thuật pháp cao thâm có thể xoay chuyển Càn Khôn, khiến mọi người vừa yêu vừa sợ. Thế nhưng nếu chúng ta quay về quá khứ, khoảng hơn ba nghìn năm trước, thuở sơ khai khi phái Mao Sơn được hình thành, người trong giáo chấp hành giáo quy nghiêm chỉnh, giảng dạy vô cùng nghiêm khắc, nhất là nhân cách của mỗi môn đồ yêu cầu phải quang minh lỗi lạc, nhưng không cần “tâm tư quá mãnh liệt”, người nhập giáo cần phải thông qua cửa xét duyệt này. Trải qua hơn ba nghìn năm thử thách và lột xác, phái Mao Sơn vẫn không suy chuyển, chẳng những không lụn bại, ở xã hội hiện đại ngày nay còn trở thành cây đại thụ mà người người thiết tha ngưỡng mộ, là đóa hoa nở rộ thanh xuân nhu cầu, tràn đầy sức sống và tình yêu mới mẻ với nhụy hoa xinh mơn mởn, mềm mại. Đặc biệt là “trong Mao Sơn Thuật Pháp” đối với đích đến và giải thích về tình cảm nam nữ thời hiện đại, trong đó sẽ tụ tập những năng lượng thần bí tự nhiên, ngưng tụ thành một loại năng lượng hoàn mỹ như nước chảy đến thành mương. Muốn thông thạo “thuật pháp Mao Sơn” cần phải tốn rất nhiều công sức, dù không cực như xây Kim Tự Tháp, nhưng cũng chẳng phải loại “thầy bà trên phố” tự xưng “mười năm khắc khổ tu luyện” hay có thể “vô sự tự thông”, ngoại trừ nhận môn hạ phái Mao Sơn làm sư phụ, trở thành đệ tử ngoài giáo thì không có cách nào, người trong giáo một mặt yêu cầu nhân cách, nhân phẩm môn đồ phải quang minh chính trực, mặt khác đối với huấn luyện phải tận tâm tận lực, sẽ khiến bản thân mở lòng từ bi, đối diện với người khác cởi mở, tu tập “Thuật Pháp Mao Sơn” mới có thể từng bước tiến bộ. Phải từng bước đi lên như vậy mới có cơ hội trở thành pháp sư công lực thâm hậu, “Mao Sơn đạo sĩ” chân chính vì dân phục vụ. Mao Sơn cũng chẳng “lợi dụng chiêu sinh” hay “thu đệ tử rộng rãi”, những người học chưa tới một năm rưỡi đã xuất sư hoàn toàn không có, mà những kẻ học “chữ như gà bới”, hỏi đến thì chẳng biết gì thì chỉ là “thầy bà” ngoài đường. Muốn trở thành “Mao Sơn đạo sĩ chân chính”, trước tiên phải bái sư, trải qua một thời gian “tu tập buồn chán” và “rèn luyện nhân cách” mới có thể trở thành “Đạo sĩ Mao Sơn chính phái” công lực cao thâm. Một kẻ tâm thuật bất chính không thể trở thành đạo sĩ cao thâm. Trong xã hội hiện nay, vẫn tồn tại rất nhiều “thầy bà” xấu, giả dạng “bùa chú Mao Sơn”, bịp bợp tự xưng mình là đạo sĩ pháp thuật cao thâm, liền tiền lừa tình, khiến mọi người nghĩ “thuật pháp Mao Sơn” là tà thuật, chẳng qua chỉ là con sâu làm rầu nồi canh. Trong lịch sử tồn tại rất nhiều bậc thầy Mao Sơn chân chính vô cùng nổi tiếng, không chỉ đạo thuật cao thâm mà y thuật cũng cao siêu, ví dụ như Cát Hồng ở Đông Tấn hay Đào Hoằng Cảnh ở Nam Lương *, thậm chí hai người còn ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành y học hiện đại, chẳng hạn như Đồ U U ** từng giành được giải Nobel y học năm 2015 khi nêu cảm nghĩ đã nói Artemisinin *** là lấy cảm hứng từ Cát Hồng. * Cát Hồng là học giả đạo giáo, nhà hóa học và nhà y được học ở Đông Tấn, còn Đào Hoằng Cảnh là một nhà y dược, luyện đan, văn học, được xưng là “Sơn trung tể tướng” ở Nam Lương. ** Đồ U U là một nữ nghiên cứu y học và y hóa Trung Quốc, được biết đến qua công trình chiết xuất thanh hao tố từ cây thanh hao vàng ngải bụi để trị bệnh sốt rét. *** Artemisinin, còn được gọi là Thanh hao tố và các dẫn xuất của nó là một nhóm các loại thuốc có tác dụng chống lại bệnh sốt rét Plasmodium falciparum. ————————— Nguồn bài viết Nhà Số 48 – 四十八号 Viết xuống “Chi Tiết Thuật Pháp Mao Sơn – Phần 1” không dễ, mọi người tán dương chính là động lực để tiểu biên tiếp tục kiên trì viết tiếp! Hẹn gặp lại a…

học pháp thuật mao sơn